THÔNG BÁO
MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ CHẾ TÀI HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH
13/10/2021 04:48:08

MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ CHẾ TÀI HÀNH VI VI PHẠM PHÁP
LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH
1. Hỏi: Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 quy định
những hành vi nào bị nghiêm cấm ?
Trả lời:
Điều 8 Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 nghiêm cấm các
hành vi sau:
- Cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm.
- Người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền
nhiễm và người mang mầm bệnh truyền nhiễm làm các công việc dễ lây truyền
tác nhân gây bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật.
- Che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp
mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật.
- Cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm.
- Phân biệt đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh
truyền nhiễm.
- Không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng,
chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật này.
- Không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo
yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
2. Hỏi: Nữ doanh nhân A từ vùng dịch trở về nước qua đường hàng
không. Khi nhập cảnh, A đã được thông báo cách ly. Khi khai báo y tế, A
đã không trung thực, khai báo không đầy đủ về thông tin, lịch trình di
chuyển của mình. Sau đó, A có triệu chứng sốt, ho, khó thở và được xét
nghiệm cho kết quả dương tính với Sars-Covid 2. Hành vi của A cũng đã
khiến 8 người tiếp xúc gần với A cũng bị dương tính với Sars-Covid 2.
Hành vi khai báo y tế không đầy đủ, thiếu trung thực của A sẽ bị xử lý như
thế nào?
Trả lời:
Theo điểm 1.1 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC về việc xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch
bệnh Covid-19 thì hành vi của A khai báo y tế không đầy đủ, gian dối gây lây
truyền dịch bệnh Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện
“hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 2015 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch
bệnh truyền nhiễm cho người. A sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Bên cạnh đó, điểm 1.1 mục 1 Công văn 45/TANDTC-PC còn quy định
người đã được thông báo mắc bệnh; người nghi ngờ mắc bệnh đã được thông
báo cách ly thực hiện một trong các hành vi sau đây gây lây truyền dịch bệnh
Covid-19 cho người khác thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm
lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều
240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người:
- Trốn khỏi nơi cách ly;
- Không tuân thủ quy định về cách ly;
- Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly.
3. Hỏi: Hành vi đưa thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về dịch
bệnh COVID-19 trên mạng xã hội bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Đăng tải thông tin sai lệch là hành vi vi phạm pháp luật. Các mức xử phạt
đối với hành vi thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về dịch bệnh COVID-
19 trên mạng xã hội được quy định như sau:
- Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 64 Nghị định 174/2013/NĐ-CP
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính,
viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện, hành vi trên bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
- Từ ngày 15/4/2020, đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp,
chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc về tình hình dịch
COVID-19 hoặc cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt về tình hình dịch COVID-
19, gây hoang mang trong Nhân dân thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
20.000.000 đồng (theo điểm a, d khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NÐ-
CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và
giao dịch điện tử. Nghị định 15/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày
15/4/2020 và thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP).
- Điều 8, Luật An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm hành vi đưa thông
tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại đến hoạt động kinh
tế xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi
hành công vụ, xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác. Người có hành vi này gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ bị xử lý hình
sự theo quy định tại khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự về tội Đưa hoặc sử dụng
trái phép mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet với mức phạt tù lên
đến 3 năm.
- Theo điểm 1.4 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống
COVID-19, người có hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông
tin giả mạo, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh COVID-19, gây dư luận
xấu thì bị xử lý về “tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính
viễn thông” theo quy định tại Điều 288 Bộ luật Hình sự.
4. Hỏi: Tài khoản Facebook V có đăng tin thất thiệt, không đúng sự
thật trên mạng xã hội về đời tư của một bệnh nhân COVID-19. Hành vi
đưa thông tin trái phép, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm người mắc
bệnh của V có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Trả lời:
Mục 1 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống COVID-19 quy
định: người có hành vi đưa trái phép thông tin cá nhân, bí mật đời tư xúc phạm
nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nhân viên y tế, người tham gia phòng,
chống dịch bệnh Covid-19, người mắc bệnh, người nghi ngờ mắc bệnh Covid-
19 thì bị xử lý về “Tội làm nhục người khác” theo quy định tại Điều 155 Bộ
luật Hình sự năm 2015.
Như vậy, theo quy định nêu trên thì hành vi của V sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về Tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật hình
sự 2015 .
5. Hỏi: Anh K nghe loa truyền thanh phường thông báo về yêu cầu
người dân phải đeo khẩu trang ở nơi công cộng để phòng dịch Covid-19,
nếu không đeo khẩu trang sẽ bị xử phạt hành chính. Anh A hỏi mức xử
phạt là bao nhiêu tiền nếu vi phạm quy định này?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 11 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong
các hành vi: không thực hiện biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người tham
gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch theo hướng dẫn của cơ
quan y tế; hoặc không thông báo Ủy ban nhân dân và cơ quan y tế dự phòng
trên địa bàn về các trường hợp mắc bệnh dịch theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cá nhân có hành vi không đeo khẩu trang ở nơi công cộng để
phòng Covid-19 có thể bị phạt tối đa đến 300.000 đồng.
Lưu ý: Mức phạt tiền nêu trên là mức phạt tiền đối với cá nhân. Đối với
cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02
lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
6. Hỏi: Quán karaoke, quán cafe vẫn tiếp tục hoạt động khi đã công
bố dịch bệnh trên cả nước và có chỉ đạo tạm dừng hoạt động của cơ quan
có thẩm quyền thì bị xử phạt hành chính như thế nào?
Trả lời:
Khoản 4 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định việc phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi:
không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở
dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch tại vùng có
dịch; không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp cấm kinh doanh, sử dụng
loại thực phẩm là trung gian truyền bệnh; không thực hiện quyết định áp dụng
biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh
doanh, dịch vụ tại nơi công cộng.
Như vậy, theo Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, quán karaoke, quán cafe
vẫn tiếp tục hoạt động khi đã công bố dịch bệnh trên cả nước và có chỉ đạo
dừng hoạt động thì bị phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
7. Hỏi: Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch
vụ như: quán bar, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát-xa, cơ sở thẩm mỹ…
thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt
động kinh doanh để phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của cơ quan, người
có thẩm quyền có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Trả lời:
Theo điểm 1.3 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống COVID-
19 thì chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ như quán
bar, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát-xa, cơ sở thẩm mỹ… thực hiện hoạt động
kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng,
chống dịch bệnh COVID-19 của cơ quan, người có thẩm quyền, gây thiệt hại từ
100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý
về “Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn
ở nơi đông người” theo quy định tại Điều 295 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa
đổi năm 2017). Cụ thể như sau:
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nếu làm chết người;
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người
trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
- Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu làm chết 02 người; gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ
thể của những người này từ 122% đến 200%; gây thiệt hại về tài sản từ
500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; là người có trách nhiệm về an
toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người.
- Phạt tù từ 06 năm đến 12 năm nếu làm chết 03 người trở lên; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ
tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; gây thiệt hại về tài sản
1.500.000.000 đồng trở lên.
- Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở
nơi đông người trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả là: (i)
Làm chết 03 người trở lên; (ii) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201%
trở lên; (iii) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên, nếu không được
ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù
từ 03 tháng đến 02 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
8. Hỏi: Hành vi cố tình tụ tập đông người tại vùng dịch COVID-19 bị
phạt bao nhiêu tiền?
Trả lời:
- Điểm c khoản 4 Điều 11 Nghị định 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế quy định phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện
quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ
hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng.
- Điểm b khoản 6 Điều 11 Nghị định 176/2013/NĐ-CP quy định phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không thực hiện quyết
định cấm tập trung đông người tại vùng đã được ban bố tình trạng khẩn cấp về
dịch.
9. Hỏi: Người vứt khẩu trang đã sử dụng không đúng nơi quy định
tại nơi công cộng bị phạt tiền như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại điểm c, d khoản 1 Điều 20 Nghị định 155/2016/NĐ-CP
ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực môi trường, người vứt khẩu trang đã sử dụng không đúng nơi quy định
tại nơi công cộng bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng; nếu vứt
trên vỉa hè, đường phố hoặc vào hệ thống thoát nước thải đô thị hoặc hệ thống
thoát nước mặt trong khu vực đô thị thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
7.000.000 đồng.
10. Hỏi: Hành vi đưa thuốc dùng trong phòng, chống dịch bệnh
COVID-19 ra khỏi biên giới nhằm thu lợi bất chính có bị truy cứu trách
nhiệm hình sự không? Nếu có thì mức phạt như thế nào?
Trả lời:
Điểm 1.7 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống COVID-19 quy
định: người có hành vi đã, đang hoặc nhằm đưa trái phép thuốc, vật tư y tế dùng
vào việc phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội buôn lậu theo
quy định tại Điều 188 Bộ luật Hình sự 2015 , cụ thể như sau:
- Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm nếu số thuốc đưa ra khỏi biên giới trị giá từ 100.000.000 đồng
đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều 188 hoặc tại một trong các Điều
189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật Hình sự hoặc đã bị
kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ
03 năm đến 07 năm nếu phạm tội có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; vật
phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất
chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; tái
phạm nguy hiểm.
- Phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ
07 năm đến 15 năm nếu vật phạm pháp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.000.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.000.000.000 đồng.
- Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000
đồng trở lên; thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên; lợi dụng thiên tai,
dịch bệnh hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Pháp nhân thương mại phạm tội này có thể bị phạt tiền tối đa đến
15.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn hoặc cấm kinh doanh,
cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01
năm đến 03 năm.
11. Hỏi: Hành vi lợi dụng dịch bệnh Covid-19 đưa thông tin không
đúng sự thật về công dụng của thuốc nhằm chiếm đoạt tài sản có bị truy
cứu trách nhiệm hình sự không?
Trả lời:
Điểm 1.6 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống COVID-19 quy
định người có hành vi lợi dụng dịch bệnh Covid-19 đưa ra thông tin không đúng
sự thật về công dụng của thuốc, vật tư y tế về phòng, chống dịch bệnh nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị xử lý về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, hình phạt
tù chung thân là mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với tội phạm này.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
12. Hỏi: Khi lực lượng chức năng tiến hành đo thân nhiệt để phòng
dịch COVID-19, bà V đã không chấp hành yêu cầu, giật khẩu trang và tát
đồng chí công an khu vực. Xin hỏi, hành vi của bà V có bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hay không?
Trả lời:
Điểm 1.9 Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống COVID-
19 quy định người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn
khác cản trở người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thì
bị xử lý về “Tội chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 330 Bộ
luật Hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:
Người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở
người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện
hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Đối chiếu với quy định trên, bà V sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với
mức phạt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm.
13. Hỏi: Khu vực nhà A sống đang thuộc khu vực bị cách ly. Mặc dù
chưa mắc bệnh COVID- 19, nhưng A lại tự ý trốn khỏi khu vực bị phong
tỏa để đến nhà bạn chơi. Hành vi của A đã gây thiệt hại 150.000.000 đồng
cho địa phương do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh. Hành vi của
A có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Trả lời:
Điểm 1.2 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm
phán TANDTC về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống COVID-19 quy
định người chưa bị xác định mắc bệnh Covid-19 nhưng sống trong khu vực đã
có quyết định cách ly, quyết định phong tỏa thực hiện một trong các hành vi sau
đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống
dịch bệnh thì bị xử lý về “Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh
lao động, về an toàn ở nơi đông người” theo quy định tại Điều 295 Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017):
- Trốn khỏi khu vực bị cách ly, khu vực bị phong tỏa;
- Không tuân thủ quy định cách ly;
- Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly;
- Không khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.
Như vậy, A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội vi phạm quy
định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người”.
14. Hỏi: Hành vi bán khẩu trang, dung dịch sát khuẩn cao hơn giá
niêm yết sẽ bị phạt tiền bao nhiêu?
Trả lời:
Điều 17 Nghị định 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn
quy định về mức xử phạt đối với hành vi lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên
tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và điều kiện bất thường, lợi dụng chính sách
của Nhà nước để định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý:
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi lợi
dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và điều kiện
bất thường khác, lợi dụng chính sách của Nhà nước để định giá mua, giá bán
hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý.
- Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp vào ngân sách nhà nước số tiền
thu lợi do định giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý.
15. Hỏi: Người che giấu tình trạng bệnh của mình hoặc của người
khác khi mắc bệnh COVID-19 bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Theo điểm a khoản 2 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày
14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, người có
hành vi che giấu tình trạng bệnh của mình hoặc của người khác khi mắc bệnh
Covid-19 (bệnh truyền nhiễm đã được công bố là có dịch) bị phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.
16. Hỏi: Hành vi không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm
đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây
truyền dịch bệnh tại vùng có dịch thì bị xử phạt hành chính như thế nào?
Trả lời:
Theo điểm a khoản 4 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày
14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, hành vi
không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở
dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh tại vùng có
dịch thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
17. Hỏi: Người không thực hiện quyết định kiểm tra, giám sát, xử lý y
tế trước khi ra vào vùng có dịch Covid-19 thì bị xử phạt hành chính như
thế nào?
Trả lời:
Theo điểm a khoản 5 Điều 11 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày
14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế, người
không thực hiện quyết định kiểm tra, giám sát, xử lý y tế trước khi ra vào vùng
có dịch thuộc nhóm A (bệnh Covid-19 thuộc nhóm A) bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
18. Hỏi: Trong thời gian dịch Covid-19 đang xảy ra, có một số cá
nhân lợi dụng sự khan hiếm về khẩu trang, thuốc sát trùng và nước rửa tay
để mua vét các mặt hàng này và nâng giá bán gấp nhiều lần nhằm thu lợi
bất chính. Hành vi vi phạm này sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
(i) Về xử phạt vi phạm hành chính:
Đối với hành vi này, Điều 46 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng quy định như sau:
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lợi
dụng tình hình khan hiếm hàng hóa để mua vét hàng hóa có giá trị từ
50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng nhằm bán lại thu lợi bất chính mà
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi vi
phạm nêu trên có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi vi
phạm nêu trên có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
- Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi vi
phạm nêu trên có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi
phạm nêu trên có giá trị từ 1.000.000.000 đồng trở lên.
- Bên cạnh đó, người có hành vi vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt
bổ sung sau:
+ Tịch thu tang vật đối với hành vi vi phạm.
+ Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, giấy
phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề từ 06 tháng hoặc đến 12 tháng đối với
hành vi vi phạm trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm.
+ Đình chỉ hoạt động kinh doanh hàng hóa vi phạm từ 06 tháng đến 12
tháng đối với hành vi vi phạm trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái
phạm.
- Biện pháp khắc phục hậu quả: Người có hành vi vi phạm còn bị buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
(ii) Về xử lý hình sự:
- Điểm 1.8 Công văn số 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về xét xử tội phạm liên quan đến phòng,
chống COVID-19 quy định: người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo
sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh Covid-19 để mua vét hàng hoá
đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc
hàng hoá được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lời bất chính thì bị xử lý
về “Tội đầu cơ" theo quy định tại Điều 196 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo
đó, người có hành vi này bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm.
- Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau bị phạt tiền từ
300.000.000 đồng đến 1,5 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 03 đến 07 năm: Có tổ chức;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; hàng hóa trị
giá từ 1,5 tỷ đồng đến 3 tỷ đồng; thu lợi bất chính từ 500 triệu đồng đến dưới
một tỷ đồng; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau bị phạt tiền từ 1,5
tỷ đồng đến 5 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 07 đến 15 năm: Hàng hóa trị giá 3 tỷ đồng
trở lên; thu lợi bất chính một tỷ đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm.
- Pháp nhân thương mại phạm tội đầu cơ có thể bị xử phạt từ 300 triệu
đồng đến 9 tỷ đồng; cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm
huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
19. Hỏi: Do nhu cầu sử dụng khẩu trang y tế của người dân tăng cao
khi dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ông Đ đã làm giả mẫu mã của
khẩu trang y tế 4 lớp. Sau đó, ông Đ đã bị cơ quan chức năng kiểm tra,
phát hiện. Xin hỏi, hành vi sản xuất khẩu trang giả của ông Đ bị xử lý như
thế nào?
Trả lời:
Việc sản xuất, kinh doanh khẩu trang y tế nếu không tuân theo các điều
kiện về sản xuất có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng. Vì
vậy, đối với hành vi sản xuất khẩu trang giả, tùy theo tính chất mức độ, động cơ
và giá trị trục lợi có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, cụ thể như sau:
- Theo khoản 1 Điều 12 Nghị định 185/2013/NĐ-CP thì mức phạt tiền
đối với hành vi sản xuất hàng giả không có giá trị sử dụng, công dụng từ
3.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
Ngoài ra, hành vi này còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung
(như: Tịch thu tang vật vi phạm; tịch thu phương tiện là công cụ, máy móc và
vật khác được sử dụng để sản xuất hàng giả…) và biện pháp khắc phục hậu quả
(như: buộc tiêu hủy tang vật đối với hành vi vi phạm; buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm; buộc thu hồi tiêu hủy hàng giả
đang lưu thông trên thị trường).
- Trong trường hợp cơ quan chức năng có thẩm quyền xác định có đủ yếu
tố cấu thành tội phạm, hành vi của ông Đ có thể bị khởi tố để điều tra, xử lý
hình sự theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Hình sự năm 2015 về “Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả” và người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt cao nhất là
15 năm tù. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến
50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
20. Hành vi lợi dụng việc mua bán hàng hóa online để lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản của người mua trong thời gian dịch COVID-19 như: quảng cáo
hàng giá rẻ, yêu cầu người mua phải đặt cọc trước nhưng không giao hàng
và chiếm đoạt tiền đặt cọc... thì bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
- Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP
ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình, dùng thủ đoạn gian
dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ
1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Ngoài ra, người vi phạm còn bị áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
- Hành vi nói trên còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi,
bổ sung 2017). Tùy tính chất và mức độ vi phạm, người phạm tội sẽ bị phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm hoặc tù
chung thân.
Đặc biệt, tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) có quy định “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” là tình tiết tăng
nặng định khung với mức hình phạt tù áp dụng là từ 7 năm đến 15 năm.
- Bên cạnh đó, theo Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010, người tiêu dùng có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ
chức xã hội khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này
và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
21. Tổ chức xét xử đối với vụ án liên quan đến phòng, chống dịch
bệnh Covid-19 được quy định như thế nào?
Trả lời:
Mục 3 Công văn 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao về xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống
COVID-19 quy định:
- Tòa án nhân dân chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát cùng cấp để áp dụng thủ tục rút gọn đối với vụ án có đủ điều kiện áp dụng
thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 456 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đối với
vụ án không đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn thì đưa ra xét xử trong thời
hạn không quá ½ thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Trong thời gian có dịch bệnh Covid-19, phải đưa các vụ án liên quan
đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ra xét xử nhưng bảo đảm quy định về
phòng, chống dịch (như: phòng xử án bố trí tối đa không quá 10 người; trường
hợp phải triệu tập người tham gia phiên tòa vượt quá số lượng này thì phải bố trí
cho họ ngồi ở phòng khác và sử dụng các thiết bị điện tử (micro, loa, ti vi,
camera...) để họ tham gia phiên tòa hoặc xét xử lần lượt từng bị cáo, người tham
gia tố tụng; bố trí khoảng cách giữa những người tham gia phiên tòa tối thiểu là
02 mét...).
- Chỉ cho người được Tòa án triệu tập vào phòng xử án để tham dự phiên
tòa;
- Trong quá trình xét xử, cần có phương án tuyên truyền phù hợp (như
đưa thông tin, hình ảnh, bài viết, phóng sự... về việc xét xử vụ án trên các
phương tiện thông tin đại chúng) để bảo đảm công tác giáo dục, phòng ngừa
chung.

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ TRẤN NAM SÁCH - HUYỆN NAM SÁCH

Trưởng Ban Biên tập: ông Nguyễn Hữu Hùng - Chủ tịch UBND thị trấn

Địa chỉ: số 273 đường Trần Phú - khu La Văn Cầu - thị trấn Nam Sách - Nam Sách - Hải Dương

Email: ubndthitrannamsach@gmail.com

Số lượt truy cập
Đang truy cập: 0
Hôm nay: 0
Tất cả: 0